Thế hệ đầu tiên của MiG-23 Mikoyan-Gurevich MiG-23

Flogger-A

MiG-23S
  • Ye-231 là nguyên mẫu đầu tiên được chế tạo cho thử nghiệm, và nó thiếu gờ răng cưa ở cánh, chi tiết này sau đó đã xuất hiện trên tất cả các kiểu MiG-23/-27. Mẫu thử nghiệm này là cơ sở cho các mẫu máy bay MiG-23/27 và Sukhoi Su-24, nhưng Su-24 có những sửa đổi lớn từ kinh nghiệm của mẫu Ye-231 so với MiG-23/27.
  • MiG-23 là mẫu tiền sản xuất, nó thiếu những giá treo vũ khi trên cánh, những giá treo này được thiết kế trên những phiên bản sản xuất sau này, nó được vũ trang bằng súng. Gờ răng cưa ở cánh đã xuất hiện trên mẫu này. Mẫu này đã thể hiện rõ ranh giới giữa MiG-23/MiG-27 và Su-24 so với mẫu đầu tiên Ye-231.
  • MiG-23S là biến thể đầu tiên được sản xuất. Có khoảng 60 chiếc được sản xuất giữa 1969-1970. Nó được sử dụng cho cả hai nhiệm vụ thử nhiệm bay và hoạt động. MiG-23S được lắp động cơ phản lực cải tiến R-27F2-300 với lực đẩy tối đa là 9980 kg, vì radar Sapfir-23 bị trì hoãn lắp đặt, nên máy bay được trang bị hệ thống điều khiển vũ khí S-21 với rada RP-22SM, về cơ bản hệ thống vũ khí giống MiG-21MF/bis. 2 súng 23 mm GSh-23L với 200 viên đạn dưới thân máy bay. Nó chưa bao giờ được đưa vào chiến đấu do gặp một số vấn đề với hệ thống cánh.
  • MiG-23SM Là mẫu tiền sản xuất thứ 2, nó còn được biết đến với tên MiG-23 Type 1971. Nó có nhiều thay đổi lớn so với MiG-23S: có hệ thống vũ khí S-23 hoàn thiện, radar Sapfir-23L với tên lửa BVR Vympel R-23R (NATO: AA-7 'Apex'). Nó còn được gắn động cơ cải tiến R-27F2M-300 (sau này có tên R-29-300) với lực đấy tối đa lên tới 12.000 kg. Loại cánh sửa đổi "mẫu số 2" tăng thêm diện tích cánh và có gờ răng cưa lớn hơn. Phần cánh nhỏ phía trước cánh chính bị loại bỏ và góc quét tăng thêm 2.5 độ. Vị trí cánh có thể thay đổi 18.5°, 47.5° và 74.5°. Bộ phận đuôi giữa thăng bằng được di chuyển về sau, và thùng nhiên liệu phụ được thêm vào phần sau thân máy bay, nó còn có một mẫu biến thể 2 chỗ. Có khoảng 80 chiếc được chế tạo. Tất cả những mẫu sau đều chứng tỏ được sự tin cậy so với những biến thể trước, nhưng loại rada Sapfir lại tỏ ra chưa chín muồi.

Flogger-B

  • MiG-23M: biến thể này bay lần đầu vào tháng 6-1972. Nó là phiên bản đầu tiên được sản xuất với số lượng lớn của loại MiG-23, và là máy bay tiêm kích đầu tiên của VVS có khả năng look-down/shoot-down (dù nó vẫn còn khả năng hạn chế). Cánh được làm nhẹ hơn nhưng vẫn chắc chắn. Động cơ R-29-300 (R-29A) đã được nâng cấp với lực đẩy là 12.500 kg. Phiên bản này cuối cùng cũng được sử dụng hệ thống cảm biến đồng bộ, hiện đại: rada cải tiến Sapfir-23D (NATO: 'High Lark'), một cảm biến hồng ngoại dò tìm theo dõi (IRST) TP-23 và một súng ngắm tự động ASP-23D. Rada "High Lark" có khả năng phát hiện mục tiêu từ khoảng cách 45 km. Radar 'High Lark' không hẳn là một radar Doppler đúng nghĩa, nhưng thay thế dùng kỹ thuật "tách sóng đường bao" hiệu quả kém, tương tự như radar trên một số máy bay của phương Tây vào thập niên 1960.
  • MiG-23MF ("Flogger-B"): là phiên bản xuất khẩu của MiG-23M cho các nước thuộc khối hiệp ước Vác-xa-va, nhưng nó cũng còn được bán cho cả những nước khác. Trên thực tế nó có 2 phiên bản. Phiên bản thứ nhất được bán cho các nước trong khối Vác-xa-va, về bản chất nó giống với MiG-23M của Liên Xô, với một thay đổi nhỏ trong hệ thống phân biệt bạn hoặc thù (IFF) và trang bị hệ thống truyền thông tin cao cấp hơn. Phiên bản thứ 2 được bán cho các nước ở ngoài khối hiệp ước Vác-xa-va, phiên bản này có một sự khác biệt về hệ thống IFF, hệ thống liên lạc (vẫn truyền thông tin theo cách thông thường với hệ thống truyền dữ liệu kết nối), sử dụng rada cũ hơn, thiếu hệ thống đối phó điện tử (ECCM). MiG-23MF được ưa chuộng hơn phiên bản MiG-23MS và có một số lượng lớn được xuất khẩu, đặc biệt là ở Trung Đông.
MiG-23MFHệ thống tia hồng ngoại có thể dò tìm mục tiêu trong khoảng 30 km để phát hiện máy bay ném bom, nhưng nó lại không nổi trội về phát hiện mục tiêu là có kích thước của máy bay tiêm kích. Nó được trang bị hệ thống truyền dữ liệu Lasur-SMA. Trang bị vũ khí tiêu chuẩn gồm có 2 tên lửa dẫn đường bằng rada hoặc tia hồng ngoại Vympel R-23 BVR (NATO: AA-7 'Apex') và 2 tên lửa dẫn đường bằng hồng ngoại tầm ngắn Molniya R-60 (NATO: AA-8 'Aphid'). Sau năm 1974, thêm 2 giá lắp tên lửa R-60 được thêm vào, nâng tổng số tên lửa R-60 lên thành 4 quả. Bom, rocket và tên lửa được trang bị cho vai trò cường kích. Sau đó nó còn được cải tiến để thêm vào loại tên lửa không đối đất dẫn đường bằng sóng vô tuyến Zvezda Kh-23 (NATO: AS-7 'Kerry'). Nhiều chiếc MiG-23 của Liên Xô còn được cải tiến để mang vũ khí hạt nhân chiến thuật. Khoảng 1.300 chiếc MiG-23M và MiG-23MF đã được sản xuất cho không quân Xô viếtQuân chủng phòng không Liên Xô (PVO Strany) giữa những năm 1972-1978. Nó đóng vai trò là loại máy bay chiến đấu quan trọng trong giữa những năm 1970.

Flogger-C

  • MiG-23U: là biến thể 2 chỗ dành cho huấn luyện. Nó là loại cải tiến từ MiG-23S, nhưng được làm dài buồng lái với một chỗ nữa cho phi công huấn luyện. Thùng xăng phía trước được thay thế để có thêm chỗ trong buồng lái, thay vào đó, một thùng xăng mới được gắn vào sau thân máy bay. MiG-23U có hệ thống cũ khí S-21, mặc dù rada vẫn là loại cũ. So với loại MiG-23M thì cánh và động cơ đều được cải tiến. Việc sản xuất bắt đầu ở Irkutsk năm 1971 và cuối cùng MiG-23U được cải tiến thành MiG-23UB.
  • MiG-23UB: nó rất giống với MiG-23U, nhưng động cơ R-29 đã được thay thế cho R-27 của MiG-23U. Việc sản xuất diễn ra cho đến trước năm 1985 (cho phiên bản xuất khẩu). Tổng cộng có 769 chiếc được sản xuất, bao gồm cả những mẫu cải tiến từ MiG-23U

Flogger-E

MiG-23MS
  • MiG-23MP: nó khá giống với MiG-23MS, nhưng chỉ sản xuất vài chiếc và không bao giờ xuất khẩu. Nó thực sự là khuôn mẫu của MiG-23MS ngoại trừ thêm vào chất điện môi trên giá đỡ vũ khí, nó liên kết với phiên bản cường kích làm cho sức mạnh của mẫu MiG-23MP tăng lên.
  • MiG-23MS: nó là phiên bản xuất khẩu, nó được cải tiến từ loại MiG-23M để bán cho các nước thuộc thế giới thứ 3. Nó khác với MiG-23M về một số mặt, nhưng có hệ thống vũ khí tiêu chuẩn S-21, với một rada RP-22SM (NATO: 'Jay Bird'), và hệ thống IRST (cảm biến hồng ngoại dò tìm theo dõi). Phiên bản này sử dụng tên lửa không đối không R-3S (NATO: AA-2a 'Atoll'), R-60 (NATO: AA-8 'Aphid') điều khiển bằng sóng vô tuyến và tên lửa R-3R NATO: AA-2d 'Atoll') được dẫn đường từ rada mặt đất bán chủ động, MiG-23MS không có khả năng tấn công BVR (ngoài tầm nhìn). Hệ thống điện tử áp dụng trên máy bay rất cơ bản. Phiên bản này được sản xuất giữa những năm 1973-1978 và được xuất khẩu phần lớn đến Bắc Phi và Trung Đông.

Tài liệu tham khảo

WikiPedia: Mikoyan-Gurevich MiG-23 http://www.flightglobal.com/Articles/2005/04/05/Na... http://www.youtube.com/watch?v=5BtwZi883kc http://www.fas.org/nuke/guide/russia/airdef/mig-23... http://www.globalaircraft.org/planes/mig-23_flogge... http://www.globalsecurity.org/military/world/russi... http://www.africana.ru/konkurs/raboti/Brylevsky/An... http://www.airwar.ru/history/locwar/bv/mig23/mig23... http://www.airwar.ru/history/locwar/bv/migs/mig23.... http://commi.narod.ru/txt/2002/0801.htm http://urrib2000.narod.ru/EqMiG23-e.html